Đưa Liệu Pháp Gen Vào Điều Trị Các Bệnh Ở Mắt,sử Dụng Đồng Thời 2 Thuốc Trị Bệnh Phổi Làm Tăng Nguy Cơ Đau Tim

Sức Khỏe - Liệu pháp gen đưa vật liệu di truyền vào các tế bào bị bệnh nhằm đạt được hiệu quả mong muốn trong bối cảnh các bệnh về mắt ngày càng gia tăng.








Phương pháp đưa liệu pháp gen vào điều trị các bệnh ở mắt

Đưa liệu pháp gen vào mắt cần phải chuyển một lượng vật liệu điều trị đủ gần sát với mô đích. Hiện nay, các phương pháp phẫu thuật đưa các chất trị liệu vào mắt bao gồm: Tiêm vào khoang dịch kính, phân phối dưới võng mạc trong phẫu thuật cắt dịch kính qua pars plana, tiêm vào khoang thượng hắc mạc.

Tiêm vào khoang dịch kính


Tiêm vào cơ thể là phương pháp phân phối đơn giản nhất và có tiềm năng lý thuyết để dẫn truyền tế bào cơ thể vào vùng cận võng mạc hoặc thể mi. Điều trị có thể được thực hiện tại phòng mạch và ít xâm lấn khiến nó trở thành một phương thức hấp dẫn cho liệu pháp gen. Kỹ thuật tiêm đã được thành lập từ liệu pháp kháng VEGF trong thực vật đối với AMD (thoái hóa điểm vàng do tuổi tác) và DME (phù hoàng điểm do đái tháo đường) thể ướt. Thuốc mê nhỏ mắt tại chỗ là thích hợp cho nhiều bệnh nhân, mặc dù cũng có thể áp dụng phương pháp gây tê dưới kết mạc.Quá trình tiêm thường được thực hiện bằng kim 30 G hoặc nhỏ hơn, và có thể dung nạp an toàn lên đến khoảng 0,1 ml chất lỏng khi tăng nhãn áp thoáng qua. Trào ngược chất lỏng nói chung là tối thiểu và vị trí tiêm có thể được chèn bằng đầu bông nếu cần thiết.








Các kỹ thuật đưa liệu pháp gen trị bệnh về mắt.

Phân phối dưới võng mạc trong phẫu thuật cắt dịch kính


Phân phối chất liệu vào khoang dưới võng mạc hiện là đường dùng phổ biến nhất được sử dụng và đã được áp dụng cho hầu hết các bệnh IRD (võng mạc bẩm sinh) và một số bệnh mắc phải. Voretigene neparvovec-rzyl, liệu pháp gen đầu tiên được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm phê duyệt, sử dụng phương pháp phân phối dưới võng mạc DNA RPE65 tái tổ hợp cho LCA (bệnh mù bẩm sinh LeBer) thông qua tiêm dưới võng mạc. Các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để đánh giá tình trạng nhiễm sắt hắc mạc, LHON (bệnh lý thị thần kinh di truyền LeBer), mù màu, bệnh võng mạc liên kết X, bệnh Stargardt, AMD và một số bệnh khác. Tiêm dưới võng mạc các vectơ AAV (virus đi kèm với Adenovirrus) có thể dẫn đến sự truyền tải mạnh mẽ và lâu dài của các tế bào cảm quang và RPE (biểu mô sắc tố).


Tiêm vào khoang thượng hắc mạc
Đây là một không gian tiềm năng giữa củng mạc và hắc mạc, đã được khai thác để phân phối liệu pháp điều trị virus và hạt nano không virus. Trong bối cảnh của liệu pháp gen, việc sử dụng phương pháp này là hấp dẫn vì nó có khả năng cho phép truyền tải tới RPE / quanh võng mạc.

Co giật mí mắt, cảnh báo các bệnh về mắt


Thiết bị điện tử làm gia tăng các bệnh về mắt


Thạch quyết minh - vị thuốc từ biển trị bệnh về mắt


Tiếp cận không gian có thể đạt được thông qua tiêm trực tiếp, tiêm vi mạch xuyên củng mạc và tiêm qua siêu catheter. Cho đến nay, ứng dụng được nghiên cứu tốt nhất của việc phân phối thuốc nhờ phương pháp này là tiêm corticosteroid để điều trị phù hoàng điểm thứ phát sau viêm màng bồ đào không nhiễm trùng và tắc tĩnh mạch võng mạc. Tuy nhiên, việc cung cấp các phân tử nhỏ, vectơ virus, kháng thể đơn dòng đã được thử nghiệm thành công. Liệu pháp gen thông qua phương pháp này có thể tránh được rủi ro và chi phí của việc phẫu thuật PPV và phẫu thuật võng mạc.





A: tiêm dịch kính B: tiêm qua khoang dịch kính, sát võng mạc, qua ống dẫn C: tiêm vào khoang thượng hắc mạc dùng microcatheterCông nghệ Microneedle cho phép tiêm vào khoang thượng hắc mạc ổn định hơn bằng cách sử dụng kim có độ sâu giới hạn, được bảo vệ, có chiều dài từ 700 đến 1100 μm. Một phương pháp khác cho liệu pháp gen sử dụng một microcatheter có đường hầm (Hình C) được đặt trong dịch truyền để phân phối đến cực sau. Gần đây có có người lần đầu tiên sử dụng ống thông mềm có đường kính 250 μm, iTrack 250A (iScience Interventional Corporation, Menlo Park, CA), tích hợp một đầu sợi quang được chiếu sáng để dẫn đường cho ống thông.Hy vọng các phương pháp đưa liệu pháp gen vào điều trị sẽ mang lại lợi ích cho một nhóm bệnh mắt đang ngày càng tăng.


Bạn đang xem: Đưa liệu pháp gen vào điều trị các bệnh ở mắt,Sử dụng đồng thời 2 thuốc trị bệnh phổi làm tăng nguy cơ đau tim



Xem thêm: Tóc Xù Mì Ngắn - Album Với Hơn 100 Ảnh Của Tóc Xoăn Xù Mì Nữ Ngắn



Sức Khỏe-Nghiên cứu mới của các nhà khoa học tại Đại học Otago (New Zealand) tiết lộ, những người sử dụng hai loại thuốc dạng hít khác nhau để điều trị các bệnh phổi mãn tính có nguy cơ bị đau tim cao hơn 50% so với những người chỉ sử dụng một loại thuốc này.








Sử dụng đồng thời 2 loại thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài có thể làm nguy cơ mắc bệnh tim.

Thuốc đối kháng muscarinic tác dụng kéo dài dạng hít (LAMAs) và thuốc chủ vận beta tác dụng kéo dài (LABA) là những loại thuốc chính được sử dụng để điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD). Hai loại thuốc này đều là thuốc giãn phế quản và mở đường thở. Thuốc hoạt động theo những cách khác nhau. Trong một số trường hợp, bệnh nhân được kê đơn cả hai loại thuốc này.

Những lưu ý khi tiêm vaccine COVID-19 ở người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính


Người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ăn gì cho khỏe?


Nghiên cứu của các nhà khoa học tại Trường đại học Otago và Auckland (New Zealand), phát hiện ra rằng, khi các loại thuốc này được dùng cùng nhau, nguy cơ bệnh nhân bị biến cố mạch vành cấp tính tăng lên.Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu ẩn danh cho tất cả các bệnh nhân đã được đánh giá nguy cơ tim mạch trong thực hành chung ở hai khu vực của New Zealand.





Sử dụng đồng thời 2 loại thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài có thể làm nguy cơ mắc bệnh tim.Các nhà khoa học đã so sánh nguy cơ mắc hội chứng mạch vành cấp tính ở những người đã được sử dụng cả ống hít LAMA và LABA để điều trị COPD với nguy cơ ở những người chỉ được sử dụng ống hít LAMA.Kết quả cho thấy, nguy cơ mắc hội chứng mạch vành cấp tính cao hơn 50% ở những bệnh nhân COPD sử dụng hai loại thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài so với bệnh nhân COPD dùng một loại. Trong vòng 1 năm, có 8/1.000 sử dụng cả LAMA và LABA điều trị COPD đã trải qua một biến cố mạch vành cấp tính mà họ sẽ không gặp phải nếu chỉ sử dụng LAMA.PGS. Lianne Parkin, Trường đại học Otago cho biết, những người bị COPD có nguy cơ cao mắc hội chứng mạch vành cấp tính. Lưu ý, những người bị COPD có nhiều khả năng tử vong do các biến cố mạch vành hơn là do suy hô hấp. Vì vậy, cần xác định các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ này. Điều quan trọng là phải kiểm tra nguy cơ liên quan đến việc sử dụng LAMA, LABA cho bệnh nhân COPD.Do đó, cần cân nhắc giữa lợi ích và tác hại tiềm năng của việc dùng thuốc, đặc biệt đối với những bệnh nhân có nguy cơ tuyệt đối cao về các biến cố tim mạch trong tương lai.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

x

Welcome Back!

Login to your account below

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.