Sức Khỏe - Ruxolitinib, một loại thuốc trị ung thư, được chứng minh là một ứng cử viên đầy hứa hẹn cho các nghiên cứu lâm sàng sâu hơn trên các bệnh nhân COVID - 19 nặng đến mức suy hô hấp cấp (ARDS).

Nghiên cứu lâm sàng lớn đang được tiến hành để chứng minh thêm liệu thuốc điều trị ung thư có lợi cho bệnh nhân COVID-19.
Kết quả khả quan trên bệnh nhân COVID-19 nặng
Đây là kết quả của một nghiên cứu từ các nhà khoa học Marburg và Kassel, CHLB Đức, được công bố trên tạp chí khoa học uy tín "Nature".
Hầu hết các bệnh nhân COVID-19 chỉ có các triệu chứng nhẹ và không gây ra đe dọa tính mạng.
Tuy nhiên bệnh có thể gây ra biến chứng nặng và phản ứng viêm đa hệ nghiêm trọng. Ở một số bệnh nhân, COVID-19 dẫn đến hội chứng suy hô hấp cấp ARDS đe dọa tính mạng, được đặc trưng bởi một diễn biến lâm sàng kéo dài.
Nhóm các nhà khoa học của Đức đã thử nghiệm việc sử dụng chất ức chế miễn dịch ruxolitinib trong các ca nhiễm trùng nặng với SARS-CoV-2.
Tiếp tục phát triển thuốc trị COVID-19 từ các loại thuốc hiện có
Thuốc trị COVID-19: Thận trọng với những tin đồn
Nga thử nghiệm thuốc trị COVID-19
Một năm trước, một nhóm nghiên cứu của Đức đã báo cáo thành công của việc sử dụng ruxolitinib cho một bệnh nhân COVID-19 bị bệnh nặng được thở máy nhân tạo.
Thuốc ruxolitinib ban đầu xuất phát từ liệu pháp điều trị ung thư: Thuốc ức chế các enzym Janus-kinase trong cơ thể có liên quan đến các phản ứng viêm quá mức.
Vì đáp ứng miễn dịch quá mức thường liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong do bệnh COVID-19, nhóm nghiên cứu đã điều tra xem việc sử dụng thuốc điều trị ung thư ruxolitinib thường xuyên có kéo dài thời gian sống sót của những bệnh nhân cần hô hấp nhân tạo hay không.
Sau đó thí nghiệm với thuốc điều trị ung thư ruxolitinib đã được mở rộng, 16 bệnh nhân COVID-19 bị suy hô hấp cấp đã tham gia.
Ở những bệnh nhân này, "bão cytokine" được cho là nguyên nhân gây ra tổn thương cơ quan giai đoạn cuối. Độ tuổi của nhóm được nghiên cứu là từ 35 đến 92, đại đa số là nam giới.
Trong 4 đến 28 ngày, bệnh nhân nhận được thuốc bên cạnh việc điều trị tiêu chuẩn cho bệnh nhân ARDS thở máy bị COVID-19, ví dụ, sử dụng thuốc chống viêm dexamethasone và remdesivir.
Kết quả nghiên cứu rất lạc quan khi 13 trong số 16 bệnh nhân vẫn còn sống sau 28 ngày, tương ứng với tỷ lệ sống sót là 81%. Trong các nghiên cứu trước đây, tỷ lệ sống sót vào ngày 28 là từ 25 đến 60%.
Tất nhiên, số lượng bệnh nhân trong nghiên cứu này còn quá nhỏ để đưa ra bất kỳ tuyên bố chắc chắn nào về hiệu quả của ruxolitinib trong điều trị COVID-19.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng chưa thực hiện so sánh với nhóm đối chứng. Một nghiên cứu lâm sàng lớn hơn hiện đang được tiến hành để chứng minh thêm liệu ruxolitinib có lợi cho bệnh nhân COVID-19 bị bệnh nặng hay không. Dẫu vậy, nhưng kết quả ban đầu là rất khả quan và bệnh nhân bị bệnh COVID-19 nặng sẽ có thêm một niềm hy vọng để điều trị trong tương lai gần.
Mời
Bạn đang xem: Phát triển phương pháp trị COVID-19 từ một loại thuốc chữa ung thư,Bổ sung vitamin K giúp giảm nguy cơ tim mạch
Xem thêm: Ôn luyện kỳ thi ielts writing task 1 phổ biến trong ielts writing
Sức Khỏe- Nghiên cứu của Đại học New Edith Cowan (ECU-Úc) đã phát hiện ra rằng, những người ăn chế độ giàu vitamin K có nguy cơ mắc bệnh tim mạch liên quan đến xơ vữa động mạch thấp hơn tới 34%.

Vitamin K có nhiều trong thực phẩm
Có hai loại vitamin K được tìm thấy trong thực phẩm ăn hàng ngày: Vitamin K1 chủ yếu đến từ các loại rau lá xanh và dầu thực vật trong khi vitamin K2 được tìm thấy trong thịt, trứng và thực phẩm lên men như pho mát.

Vitmin K có nhiều trong thực phẩm.
Các nhà nghiên cứu tại ECU đã kiểm tra dữ liệu từ hơn 50.000 người tham gia vào nghiên cứu Chế độ ăn uống, Ung thư và Sức khỏe của Đan Mạch trong khoảng thời gian 23 năm. Họ đã điều tra xem liệu những người ăn nhiều thực phẩm có chứa vitamin K có ít nguy cơ mắc bệnh tim mạch liên quan đến chứng xơ vữa động mạch hay không.
3 loại vitamin giúp bạn khoẻ mạnh trong mùa dịch
Vitamin K giúp xương khỏe mạnh và ngừa bệnh tim mạch
Kết quả nghiên cứu cho thấy, những người có lượng vitamin K1 cao nhất có nguy cơ nhập viện vì bệnh tim mạch liên quan đến xơ vữa động mạch thấp hơn 21%. Đối với vitamin K2, nguy cơ nhập viện thấp hơn 14%. Nguy cơ thấp hơn này được thấy đối với tất cả các loại bệnh tim liên quan đến xơ vữa động mạch, đặc biệt đối với bệnh động mạch ngoại vi là 34%.Những phát hiện này cho thấy rằng tiêu thụ nhiều vitamin K hơn có thể quan trọng để bảo vệ chống lại chứng xơ vữa động mạch và bệnh tim mạch sau này.TS. Nicola Bondonno (ECU) cho biết, các hướng dẫn chế độ ăn uống hiện tại chỉ dựa trên lượng vitamin K1 mà một người nên tiêu thụ để đảm bảo rằng máu có thể đông lại. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy, việc hấp thụ vitamin K cao hơn hướng dẫn hiện tại có thể bảo vệ chống lại sự phát triển của các bệnh khác, như xơ vữa động mạch.Các nhà nghiên cứu cho hay, trong khi các dữ liệu về hàm lượng vitamin K1 trong thực phẩm rất đầy đủ, thì hiện tại có rất ít dữ liệu hơn về hàm lượng vitamin K2. Hơn nữa, có 10 dạng vitamin K2 được tìm thấy trong chế độ ăn uống và mỗi dạng này có thể được hấp thụ và hoạt động khác nhau trong cơ thể.Giai đoạn tiếp theo của nghiên cứu sẽ liên quan đến việc phát triển và cải thiện cơ sở dữ liệu về hàm lượng vitamin K2 trong thực phẩm. Tuy nhiên, những phát hiện này đã làm sáng tỏ tác động của vitamin K đối với sức khỏe tim mạch và nhấn mạnh tầm quan trọng của một chế độ ăn uống lành mạnh trong việc ngăn ngừa căn bệnh này.